Tác giả: Nguyễn Xuân Thu, Nguyễn Thanh Mai
Tóm tắt: Xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới cũng như mong muốn của Đảng và Nhà nước ta quyết tâm tạo bước chuyển mới, rõ rệt trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Đặc biệt, việc thu hồi tài sản tham nhũng trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế đang là vấn đề trọng yếu, quyết liệt, làm sao phải đạt hiệu quả cao nhất, không để tiền của Nhà nước “bị lọt lưới”, không thu hồi được. Theo đó, công tác điều tra, truy tố, xét xử các vụ án về tham nhũng, kinh tế cần được tiến hành một cách kiên quyết, không khoan nhượng, không nương nhẹ, không làm oan, cũng như không bỏ lọt tội phạm. Việc xử lý những vụ án tham nhũng phải hết sức nghiêm minh, nhưng cũng đặt tiêu chí nhân văn, xử lý có lý, có tình. Trong phạm vi bài viết này chúng tôi đề cập đến những yếu tố ảnh hưởng đến công tác thu hồi tài sản tham nhũng trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế. Qua đó, chúng ta có cái nhìn tổng thể về các yếu tố ảnh hưởng đến việc thu hồi tài sản tham nhũng trong các tội phạm hình sự về tham nhũng, kinh tế. Từ đó, giúp các cơ quan chức năng nhận định và đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác này trên thực tiễn.
1. Thực trạng về tình hình tội phạm tham nhũng và việc thu hồi tài sản tham nhũng trong những năm qua
Theo thống kê của Cục thống kê Viện kiểm sát nhân dân tối cao, từ năm 2013 đến 2020 các cơ quan tố tụng trong cả nước đã khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử hơn 11.700 vụ án tham nhũng, chức vụ, kinh tế, trong đó có 1.900 vụ án tham nhũng với gần 4.400 bị cáo bị đưa ra xử lý. Riêng Ban chỉ đạo phòng, chống tham nhũng đã đưa vào theo dõi, chỉ đạo hơn 800 vụ án. Một số vụ án điển hình lớn đã bị phát hiện và xử lý nghiêm minh, như vụ: AVG; vụ Việt Á; vụ đường Cao tốc Đà Nẵng - Quảng Ngãi; vụ Ocean Bank; vụ Hà Văn Thắm… Nhiều vụ án phức tạp, liên quan đến cán bộ cấp cao của Đảng và Nhà nước, cả Ủy viên Bộ Chính trị, Thứ trưởng, Bộ trưởng, chủ tịch UBND cấp tỉnh, các tướng lĩnh trong lực lượng vũ trang.
Cũng theo thống kê của Cục thống kê Viện kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC) về tỷ lệ % thu hồi tài sản tham nhũng từ 2013 đến 2020 và một số vụ án điển hình thu hồi được tài sản tham nhũng, cho chúng ta thấy tài sản tham nhũng trong các vụ án tham nhũng, kinh tế “khủng” đến mức nào, và nếu không có biện pháp thu hồi lại số tài sản này cũng như không có giải pháp ngăn chặn và đẩy lùi tham nhũng, thì hậu quả khôn lường. Tham nhũng sẽ làm nghèo đất nước trước khi nói đến những yếu tố bị ảnh hưởng khác từ tội phạm tham nhũng và những hành vi tham nhũng (Ảnh hưởng đến niềm tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng và Nhà nước ta bị giảm sút nghiêm trọng; ảnh hưởng đến lợi ích của quần chúng nhân dân; ảnh hưởng đến ngân sách của quốc gia bị thâm hụt; ảnh hưởng đến kinh tế và sự phát triển của một quốc gia-dân tộc; ảnh hưởng đến hợp tác quốc tế… vì rất ít có niềm tin và độ bền vững khi giao kết làm ăn với quốc gia tràn ngập tệ nạn tham nhũng…). Điển hình như: năm 2013 tỷ lệ thu hồi tài sản trong các vụ án tham nhũng, kinh tế chỉ đạt có 10%, thì từ 2013 - 2020 tỷ lệ bình quân là 32,04%. Tiền thu được trong một số vụ án hình sự về tham nhũng điển hình, như sau: đã thu hồi hơn 9.533 tỷ đồng từ các vụ án tham nhũng; thu 50.000 USD; phong tỏa 32.110.71 USD; kê biên 116 bất động sản và 159.565 cổ phần, cổ phiếu; 175 lượng vàng SJC; thu hồi hơn 393.115m2 đất… Một số vụ án thu hồi tài sản cao như vụ án lợi dụng chức vụ quyền hạn gây hậu quả nghiêm trọng, đưa hối hộ, nhận hối lộ xảy ra tại Công ty Việt Á, các bị can nhận hối lộ đã tự nguyện nộp số tiền hưởng lợi bất chính nhiều nghìn tỷ đồng. Cơ quan điều tra đã kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản, tổng tài sản thu hồi trị giá 1.400 tỷ đồng; vụ án vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng xảy ra tại Sở Giáo dục - Đào tạo tỉnh Quảng Ninh, cơ quan điều tra đã kê biên 09 bất động sản, 01 ô tô, phong tỏa tài khoản 05 tỷ đồng; các bị can đã nộp khắc phục 14,8 tỷ đồng; Vụ án Nguyễn Văn Minh và đồng phạm phạm tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước gây thất thoát, lãng phí xảy ra tại Tổng công ty Sản xuất, xuất nhập khẩu Bình Dương, tổng công ty đã nộp 452 tỷ đồng khắc phục hậu quả, ngoài ra cơ quan điều tra còn thu giữ 5.000 USD, 8 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; vụ án tham ô tài sản xảy ra tại bưu điện thị xã Điện Bàn (Quảng Nam), bị can Vũ Thị Ngọc Anh, kế toán trưởng và Phạm Thị Diễm, thủ quỹ bưu điện thị xã Điện Bàn, đã tự nguyện nộp tiền khắc phục hậu quả 48 tỷ đồng và cơ quan điều tra đã kê biên nhà, đất của bị can trị giá khoảng 20 tỷ đồng; vụ án Nguyễn Đức Chung và đồng phạm đã phạm tội Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ xảy ra tại Công ty TNHH một thành viên Thoát nước Hà Nội, các đối tượng đã nộp tiền khắc phục hậu quả ở giai đoạn xét xử phúc thẩm số tiền 25 tỷ đồng...
Báo cáo tổng kết công tác năm 2022 của VKSNDTC có nêu rõ tỉ lệ thu hồi tài sản trong các vụ án tham nhũng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đạt 82,6% (vượt 22,6% so với chỉ tiêu của Quốc hội, tăng 23% so với năm 2021); hoạt động điều tra đúng quy định pháp luật, không để xảy ra oan, sai.
Như vậy tỷ lệ % thu hồi tài sản tham nhũng trong những năm qua dù có chuyển biến nhưng vẫn chưa được cao, vẫn để lọt lưới tài sản tham nhũng khá nhiều.
2. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thu hồi tài sản tham nhũng trong các vụ án tham nhũng, kinh tế
Yếu tố thứ nhất: chủ trương, đường lối của Đảng về công tác phòng, chống tham nhũng và thu hồi tài sản tham nhũng trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế.
Những năm gần đây, cùng với việc lãnh đạo, chỉ đạo đẩy mạnh phát triển kinh tế, xã hội, Đảng ta luôn quan tâm lãnh đạo công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng gắn với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Cùng với chủ trương chủ động phòng ngừa, phát hiện và xử lý hành vi tham nhũng, công tác thu hồi tài sản tham nhũng ngày càng được nhận thức rõ ràng hơn và được xác định là nhiệm vụ quan trọng trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Báo cáo Chính trị Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI đã chỉ rõ: “Xử lý đúng pháp luật, kịp thời, công khai cán bộ tham nhũng; tịch thu sung công tài sản tham nhũng, tài sản có nguồn gốc từ tham nhũng”
Tại Hội nghị Trung ương 3 ngày 21/8/2006, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã ban hành Nghị quyết số 04-NQ/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí - Nghị quyết chuyên đề đầu tiên của Đảng về công tác phòng, chống tham nhũng và thu hồi tài sản tham nhũng; ngày 07/12/2015, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 50- CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phát hiện, xử lý vụ việc, vụ án tham nhũng; ngày 03/6/2021, Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Kết luận số 05-KL/TW về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 50-CT/TW chỉ ra 07 nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả công tác phát hiện, xử lý, thu hồi tài sản tham nhũng; Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII cũng đã đưa ra nhiều chủ trương và giải pháp căn cơ quyết liệt về phòng, chống tham nhũng.
Ngày 02/6/2021, lần đầu tiên Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị riêng - Chỉ thị số 04-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế. Đây là cơ sở quan trọng để các bộ, ngành, cơ quan thi hành án dân sự triển khai thực hiện nâng cao hiệu quả công tác thu hồi tài sản.
Chỉ thị số 04/CT-TW ngày 21/6/2021 của Ban Bí thư có đưa ra yêu cầu sau: “Rà soát, sửa đổi, bổ sung, xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách về việc thu hồi lại tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế, nhất là các quy định về thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt; về cơ chế thu hồi tài sản bị chiếm đoạt không qua thủ tục kết tội; cơ chế xử lý tài sản bị kê biên, phong tỏa; sớm khắc phục những bất cập, vướng mắc trong kê biên, phong tỏa; sớm khắc phục những bất cập, vướng mắc trong kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản, thẩm định giá, bán đấu giá tài sản, thành lập, giải thể, phá sản doanh nghiệp”. Tuy nhiên, thực tiễn công tác cho thấy nhận thức và trách nhiệm của một số cấp uỷ, tổ chức Đảng về công tác thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế vẫn còn hạn chế. Cơ chế, chính sách, pháp luật trong công tác này vẫn còn bất cập. Năng lực, phẩm chất của một bộ phận cán bộ làm công tác thi hành án dân sự chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ chính trị đặt ra đối với việc cấp thiết và quan trọng của việc phải làm sao thu hồi được tài sản tham nhũng trong các vụ án tham nhũng, kinh tế; sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng và cơ quan thi hành án có lúc, có việc chưa chặt chẽ, hiệu quả chưa cao; hợp tác quốc tế trong thu hồi tài sản tham nhũng bị tẩu tán ra nước ngoài còn quá nhiều khó khăn, vướng mắc vì tính bảo mật thông tin cũng như cam kết và quy tắc tiền gửi của các ngân hàng quốc tế không đơn giản để kiểm soát và thu hồi. Chính vì các lý do đó mà thực tế tỉ lệ thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt còn thấp so với số tiền thất thoát, chiếm đoạt...
Có thể thấy, dưới sự chỉ đạo quyết liệt của Đảng, của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và sự đồng lòng, ủng hộ của quần chúng nhân dân, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng nói chung và công tác thu hồi tài sản trong các vụ án hình sự về kinh tế, tham nhũng nói riêng thời gian qua, đặc biệt là từ sau năm 2013, đã có nhiều chuyển biến tích cực trong tất cả các giai đoạn, từ thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử đến thi hành án dân sự đã đạt được những kết quả quan trọng, tạo dấu ấn rõ nét trong công tác phòng, chống tham nhũng.
Yếu tố thứ hai: Yếu tố kinh tế ảnh hưởng đến thu hồi tài sản tham nhũng trong các vụ án hình sự tham nhũng, kinh tế.
Thiệt hại vật chất của tham nhũng ngày càng hiện hữu, số tiền thu bất chính của các đối tượng phạm tội trong các vụ án tham nhũng, kinh tế lên đến nhiều nghìn tỷ đồng. Cũng vì vậy mà tác hại về kinh tế do hành vi tham nhũng gây ra là vô cùng lớn. Vì tham nhũng là việc trục lợi để lấy tiền công làm của riêng, nên bao giờ khi có tham nhũng xảy ra cũng kéo theo hậu quả kinh tế, đây được xem như hậu quả dễ thấy nhất của tham nhũng. Tham nhũng đã và đang và sẽ làm nghèo đất nước, lợi ích của một cá thể, của một “nhóm lợi ích” sẽ kéo lùi sự phát triển của một quốc gia, một dân tộc. Theo đó, ảnh hưởng của tham nhũng đến nền kinh tế nước nhà là điều tất yếu và do đó cần đấu tranh kiên quyết, đặc biệt phải làm sao thu hồi được tài sản về cho Nhà nước, cho Nhân dân mới là vấn đề quan trọng trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng này.
Theo đó, sự ảnh hưởng của yếu tố kinh tế đối với việc thu hồi tài sản tham nhũng trong các vụ án tham nhũng, kinh tế được thể hiện ở các góc độ sau:
Một là, đối với các tội phạm tham nhũng, kinh tế luôn đặt vấn đề phải có giải pháp thu hồi tài sản tham nhũng được càng nhiều càng tốt. Do đó, Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 có hiệu lực thi hành ngày 01/01/2018 (BLHS năm 2015) có quy định “mới” cho phép người phạm tội nếu khắc phục được ¾ số tiền chiếm đoạt từ các vụ án hình sự tham nhũng, kinh tế thì sẽ tránh được hình phạt “tử hình”. Cụ thể tại điểm c khoản 2 Điều 40 BLHS năm 2015 có quy định “Người bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ mà sau khi bị kết án đã chủ động nộp lại ít nhất ¾ tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn…khoản 4 quy định: trường hợp người bị kết án tử hình được ân giảm, thì hình phạt tử hình được chuyển thành tù chung thân”
Tiếp theo đó nếu khắc phục toàn bộ thì khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử sẽ xem xét và cân nhắc có cần thiết hoặc không cần thiết tuyên phạt tù chung thân, hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người có hành vi phạm tội… người phạm tội tham nhũng, kinh tế mà số tiền tham nhũng càng được khắc phục nhiều, thì mức án càng được giảm sâu. Chính vì quy định mới này đã tác động trực diện vào kinh tế, nên đã thu về số lượng tiền khá lớn cho Nhà nước ta trong những năm qua khi mà cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng đang đẩy lên cao trào, thể hiện sự quyết tâm, quyết liệt của Đảng ta, Nhà nước ta trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng.
Hai là, để dễ dàng thu hồi được tài sản tham nhũng, đã có cơ chế kiểm soát tài sản, thu nhập dưới hình thức kê khai tài sản, thu nhập hàng năm, đặc biệt đối với những người có chức vụ, quyền hạn hoặc làm những công việc nhạy cảm dễ bị cám dỗ càng phải kiểm soát chặt chẽ hơn. Theo đó, dễ dàng chứng minh nguồn tiền, dòng tiền không minh bạch, là cơ sở để điều tra, xác minh nguồn gốc của những tài sản, thu nhập không minh bạch đó. Qua đó, là cơ sở để các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng ra quyết định phong tỏa tài sản để đảm bảo việc khắc phục hậu quả trong thi hành án, cũng như đối với các trường hợp thu hồi tài sản tham nhũng nhưng không qua con đường tố tụng. Việc quy định về kinh tế như vậy đã giúp nhà nước thu về số tiền khá lớn của những hành vi tham nhũng trong các vụ án tham nhũng, kinh tế. Ví dụ: Cơ quan Kiểm sát cũng phối hợp chặt chẽ với cơ quan điều tra trong việc áp dụng các biện pháp thu hồi tài sản trong những vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế... Cụ thể, đã thu hồi hơn 9.533 tỷ đồng; thu 50.000 USD; phong tỏa 32.110.71 USD; kê biên 116 bất động sản và 159,565 cổ phần, cổ phiếu; 175 lượng vàng SJC; thu hồi hơn 393.115m2 đất… Một số vụ án thu hồi tài sản cao như vụ án lợi dụng chức vụ quyền hạn gây hậu quả nghiêm trọng, đưa hối hộ, nhận hối lộ xảy ra tại Công ty Việt Á, các bị can nhận hối lộ đã tự nguyện nộp số tiền hưởng lợi bất chính nhiều nghìn tỷ đồng. Cơ quan điều tra đã kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản, tổng tài sản thu hồi trị giá 1.400 tỷ đồng. Vụ án vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng xảy ra tại Sở Giáo dục - Đào tạo tỉnh Quảng Ninh, cơ quan điều tra đã kê biên 9 bất động sản, 1 ô tô, phong tỏa tài khoản 5 tỷ đồng; các bị can đã nộp khắc phục 14,8 tỷ đồng. Vụ án Nguyễn Văn Minh và đồng phạm phạm tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước gây thất thoát, lãng phí xảy ra tại Tổng công ty Sản xuất, xuất nhập khẩu Bình Dương, tổng công ty đã nộp 452 tỷ đồng khắc phục hậu quả, ngoài ra cơ quan điều tra còn thu giữ 5.000 USD, 8 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Vụ án tham ô tài sản xảy ra tại bưu điện thị xã Điện Bàn (Quảng Nam), bị can Vũ Thị Ngọc Anh, kế toán trưởng và Phạm Thị Diễm, thủ quỹ bưu điện thị xã Điện Bàn, đã tự nguyện khắc phục 48 tỷ đồng và cơ quan điều tra đã kê biên nhà, đất của bị can trị giá khoảng 20 tỷ đồng. Vụ Nguyễn Đức Chung và đồng phạm phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ xảy ra tại Công ty TNHH MTV Thoát nước Hà Nội đã nộp khắc phục hậu quả ở giai đoạn xét xử phúc thẩm số tiền 25 tỷ đồng...
Báo cáo nêu rõ tỉ lệ thu hồi tài sản trong các vụ án tham nhũng của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao đạt 82,6% (vượt 22,6% so với chỉ tiêu của Quốc hội, tăng 23% so với năm 2021); hoạt động điều tra đúng quy định pháp luật, không để xảy ra oan, sai.
Như vây, việc vận dụng các quy định của pháp luật, “đánh” trực diện vào kinh tế cũng là một trong những vấn đề có ảnh hưởng rất tích cực đến việc quyết liệt thu hồi bằng được tài sản tham nhũng trong các vụ án tham nhũng, kinh tế.
Yếu tố thứ ba: thi hành án dân sự trong vụ án hình sự nhằm thu hồi tài sản tham nhũng trong các vụ án hình sự tham nhũng, kinh tế.
Thi hành án nhằm thu hồi tài sản tham nhũng trong các vụ án hình sự tham nhũng, kinh tế đóng vai trò hết sức quan trọng. Vì tài sản tham nhũng có bị lọt lưới hay thu về cho nhà nước, cơ quan, tố chức chỉ có thể thực hiện được khi thi hành án thành công.
Một là, sự ảnh hưởng của cơ chế thu hồi tài sản tham nhũng ở nước ta hiện nay chủ yếu được thực hiện dựa trên các bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Ưu điểm của cơ chế này là công khai, minh bạch, được phán quyết bằng một Tòa án có thẩm quyền, theo một trình tự thủ tục chặt chẽ. Theo Bộ luật Tố tụng hình sự hiện nay, không phải sau khi có bản án có hiệu lực pháp luật thì các cơ quan có thẩm quyền mới áp dụng các biện pháp như: kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản của người phạm tội tham nhũng, mà việc kê biên, phong tỏa được thực hiện ngay từ giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử vụ án tham nhũng nhằm ngăn chặn hành vi tẩu tán tài sản. Có thể nói rằng, vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế liên quan đến hành vi tham nhũng, đến giai đoạn thi hành án, cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền xác minh tài sản của người phải thi hành án để thu hồi tài sản cho Nhà nước, cá nhân, tổ chức. Do đó, cơ chế thu hồi tài sản tham nhũng thông qua thủ tục kết án hình sự, được coi là cơ chế chủ yếu để thu hồi tài sản tham nhũng.
Hai là, sự ảnh hưởng của hoạt động thi hành án dân sự trong việc thu hồi tài sản tham nhũng đối với các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế là vô cùng quan trọng, khâu then chốt của mọi hoạt động tố tụng. Dù đối tượng phạm tội tham nhũng có bị khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử, nhưng nếu thi hành án dân sự không thu được tài sản “tham nhũng” thì hiệu quả công tác cũng không cao. Trong những năm qua, để đảm bảo việc thu hồi tài sản tham nhũng trong các vụ án tham nhũng, kinh tế, cũng như liên quan đến các vấn đề thi hành án dân sự đang bị tồn đọng, kéo dài, thất thoát và tỷ lệ thi hành được không cao, đang đặt ra vấn đề phải làm sao, làm như thế nào để việc thu hồi tài sản tham nhũng phải đạt hiệu quả cao nhất với tỷ lệ % thu hồi cao nhất có thể. Đảng, Nhà nước, Bộ, ngành Tư pháp, Tổng cục Thi hành án dân sự đã thực hiện rất nhiều giải pháp kiểm soát quyền lực để phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác thi hành án dân sự. Nhiều giải pháp đã thực sự phát huy hiệu quả, đi vào cuộc sống, về cơ bản các kẽ hở, những nội dung chưa bao quát hết của các quy định pháp luật dẫn đến vi phạm trong thi hành án dân sự ngày càng được kiểm soát chặt chẽ hơn. Nhằm tạo chuyển biến cơ bản công tác phòng, chống tiêu cực, tham nhũng trong thi hành án dân sự. Ngày 11/02/2014, Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Chỉ thị số 01/CT-BTP về việc tăng cường phòng, chống tiêu cực, tham nhũng trong thi hành án dân sự. Qua đó, nâng cao ý thức, trách nhiệm của cơ quan, công chức thuộc hệ thống thi hành án dân sự trong thực thi nhiệm vụ, công vụ; ngăn chặn, loại bỏ điều kiện phát sinh tiêu cực, tham nhũng trong hoạt động thi hành án dân sự, góp phần xây dựng bộ máy các cơ quan thi hành án dân sự trong sạch, vững mạnh, hoạt động hiệu quả. Sau Chỉ thị này, Bộ Tư pháp, Tổng cục thi hành án dân sự đề ra rất nhiều quy định về phòng ngừa tiêu cực, tham nhũng, sai phạm với nhiều giải pháp đồng bộ như: Kiểm soát quyền lực thông qua hoạt động của tổ chức Đảng, qua giám sát tối cao của Quốc hội, giám sát của các Ủy ban của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, qua giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, người dân, doanh nghiệp, các hiệp hội quần chúng, hội nghề nghiệp, các cơ quan báo chí, qua quản lý của Bộ Tư pháp và Tổng cục thi hành án dân sự, qua giám sát chéo giữa các cơ quan tư pháp… làm sao việc ra quyết định thi hành án và thực thi việc thi hành án thu hồi tài sản tham nhũng phải đạt hiệu quả cao nhất.
Yếu tố thứ tư: yếu tố con người ảnh hưởng đến việc thu hồi tài sản tham nhũng trong các vụ án hình sự tham nhũng, kinh tế.
Yếu tố con người là hết sức quan trọng, sự nghiệp cách mạng thành công hay thất bại đều phụ thuộc vào con người. Công tác cán bộ được coi là công tác quan trọng, cũng cần được thực hiện công khai, minh bạch, rõ ràng với mục tiêu chọn người tài, đức làm việc và thực sự là “công bộc” của dân. Làm tốt công tác cán bộ sẽ khắc phục được tình trạng chạy chức, chạy quyền (một dạng của hành vi tham nhũng); cũng như tránh được hiện tượng vơ vét bỏ túi cá nhân sau khi đã “chạy” chức. Đảng ta xác định: cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng; công tác cán bộ chính là khâu “then chốt” của công tác xây dựng đảng và hệ thống chính trị. Vì thế, cần phải nghiêm túc xác định rằng xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, quan trọng và việc đầu tư cho lĩnh vực này là hết sức cần thiết. Bởi lẽ yếu tố con người là hết sức quan trọng, đảm bảo cán bộ phải vừa hồng vừa chuyên. Giỏi chuyên môn nghiệp vụ, nhưng cũng là những người có đạo đức, có nhân cách và phẩm cách tốt. Theo đó họ biết giữ mình, không để “tâm tham” nổi lên trước những cám dỗ của đời sống thường nhật. Biết rằng đó là điều rất khó, chính vì vậy cần phải có những chính sách, cơ chế và giải pháp phù hợp về công tác cán bộ để tìm ra những cán bộ cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư trong công việc và cuộc sống. Phải thường xuyên đổi mới công tác cán bộ cho phù hợp với thực tiễn. Xây dựng đội ngũ cán bộ phải từ yêu cầu của cuộc sống, của thực tiễn, của công cuộc đổi mới. Vì thế, yếu tố con người vô cùng quan trọng, tham nhũng hay không tham nhũng; phạm tội hay không phạm tội; vơ vét hay không vơ vét… tất cả đều từ tư duy và hành động của con người. Đặc biệt những người làm công tác xử lý tội phạm tham nhũng hay thi hành án dân sự về lĩnh vực thu hồi tài sản tham nhũng trong các vụ án tham nhũng, kinh tế cần có tuyển chọn kỹ lưỡng, phải vì việc công, không bị cám dỗ để làm sai, ảnh hưởng đến việc thu hồi tài sản tham nhũng cho Nhà nước. Chính vì vậy, cần phải tập trung chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu gắn với đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
Yếu tố thứ năm: Sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong thu hồi tài sản tham nhũng trong các vụ án hình sự tham nhũng, kinh tế.
Cơ quan thi hành án dân sự cần chủ động phối hợp với các Bộ, ngành liên quan (Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Ngân hàng Nhà nước, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước) tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình thu hồi tài sản tham nhũng trong các vụ án tham nhũng, kinh tế. Cần tổ chức các buổi làm việc trực tiếp với Ban Chỉ đạo thi hành án dân sự các địa phương, nhất là các địa bàn trọng điểm về án kinh tế, tham nhũng như Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng và Hà Nội để kịp thời chỉ đạo, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc.
Viện kiểm sát nhân dân tối cao đẩy mạnh hoạt động tương trợ tư pháp, sớm phát hiện và xử lý tài sản phạm tội ở nước ngoài. Theo đó, tăng cường trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân các cấp và Kiểm sát viên trong việc thực hiện chức năng kiểm sát đối với các vụ việc này, đảm bảo khẩn trương, quyết liệt và hiệu quả cao nhất.
Tòa án nhân dân tối cao tiếp tục chỉ đạo các Tòa án nhân dân có thẩm quyền tích cực phối hợp với các cơ quan thi hành án dân sự trong việc khẩn trương giải thích, đính chính bản án hoặc có văn bản trả lời kiến nghị của cơ quan thi hành án dân sự. Đồng thời Tòa án nhân dân cần chuyển giao đầy đủ, đúng hạn, đúng quy định bản án và các tài liệu kèm theo để cơ quan thi hành án dân sự kịp thời tổ chức thi hành án nhanh nhất.
Cơ quan thanh tra, kiểm tra, kiểm toán cần kịp thời áp dụng các biện pháp ngăn chặn hành vi tẩu tán tài sản, sang tên cho người khác, rửa tiền thông qua các hình thức đầu tư, góp vốn hoặc gửi ngân hàng quốc tế...
Các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết các vụ án tham nhũng, kinh tế cần nâng cao hơn nữa trách nhiệm của mình trong việc phát hiện tài sản tham nhũng. Tiến hành điều tra, xác minh, thu thập chứng cứ, truy nguyên, truy tìm dòng tiền, tài sản của người phạm tội ngay từ khi bắt đầu khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng. Các cơ quan tiến hành tố tụng cũng cần phải phối hợp với các cơ quan liên quan để xác định cụ thể, chính xác tính chất pháp lý của tài sản kê biên.
Cấp uỷ, chính quyền địa phương, Ban chỉ đạo thi hành án dân sự các cấp cần phối hợp chặt chẽ với Bộ Tư pháp, cơ quan thi hành án dân sự để tập trung tháo gỡ những khó khăn, những vướng mắc trong quá trình thi hành án dân sự, đảm bảo đáp ứng việc kịp thời thu hồi triệt để các tài sản tham nhũng đã được cơ quan có thẩm quyền kê biên.
Yếu tố thứ sáu: yếu tố về cơ chế, thể chế và thiết chế ảnh hưởng đến việc thu hồi tài sản tham nhũng trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế.
- Về cơ chế: Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, nhằm kiểm soát quyền lực để phòng, chống tham nhũng, tiêu cực có hiệu quả, trong đó quy định cụ thể, nhận diện và xử lý kịp thời đối với các hành vi có dấu hiệu vi phạm, tiêu cực của Đảng viên và tổ chức Đảng trong hoạt động thi hành án dân sự. Phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan tư pháp, tổ chức trong hoạt động thi hành án dân sự cũng phải bảo đảm nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, thuộc về nhân dân và đặt dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Hiến pháp năm 2013.
Theo đó, thời gian tới, cần đề xuất ban hành quy định cụ thể của Đảng về kiểm soát quyền lực trong điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đối với các tội phạm tham nhũng, kinh tế, xác định sự thống nhất đầu mối trong hoạt động phòng chống tham nhũng. Việc này phải làm từ Trung ương đến địa phương thông qua Ban Chỉ đạo phòng chống tham nhũng, tiêu cực các cấp. Theo đó, xác định các nội dung cụ thể về kiểm soát quyền lực đối với lĩnh vực thi hành án dân sự về thu hồi tài sản tham nhũng trong các vụ án tham nhũng, kinh tế, bao gồm: một là, kiểm soát đối với đảng viên, tổ chức Đảng trong thực hiện công vụ có dấu hiệu vi phạm về chuyên môn nghiệp vụ của các chấp hành viên, của người lãnh đạo cơ quan thi hành án dân sự; hai là, công tác quản lý kinh phí, tài chính; ba là, thu chi tiền, tài sản thi hành án; bốn là, công tác kiểm tra, tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo và bồi thường nhà nước…
- Về thể chế: Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định về thu hồi tài sản bị chiếm đoạt, thất thoát trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế. Nghiên cứu hoàn thiện pháp luật hình sự, tố tụng hình sự, dân sự, thi hành án dân sự, tố tụng dân sự, phá sản, giá, giám định, định giá, tín dụng, ngân hàng, xử lý nợ xấu, đăng ký tài sản, đấu giá tài sản công… đảm bảo thống nhất, đồng bộ, tránh chồng chéo, nhằm nâng cao hiệu quả thu hồi tài sản trong các vụ án tham nhũng, kinh tế.
Xác định rõ mục tiêu hướng tới của hoạt động hoàn thiện pháp luật, chính là tài sản tham nhũng trong các vụ án tham nhũng, kinh tế cần được thu hồi hết, tránh thất thoát, tẩu tán, chuyển nhượng bất hợp pháp cho các đối tượng khác nhằm che giấu, chiếm đoạt tài sản của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức. Đòi hỏi các cơ quan lập pháp, hành pháp phải khẩn trương và quyết liệt tiến hành rà soát, sửa đổi, bổ sung, xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế, nhất là các quy định về trình tự, thủ tục thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt. Về cơ chế thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt không qua thủ tục kết tội. Cần sớm khắc phục những bất cập, vướng mắc trong kê biên tài sản, phong toả tài khoản, thẩm định giá, bán đấu giá tài sản, thành lập, giải thể, phá sản doanh nghiệp. Nghiên cứu rà soát, sửa đổi, bổ sung pháp luật về thanh tra, kiểm toán, tố tụng hình sự, thi hành án dân sự và các quy định pháp luật liên quan theo hướng bổ sung cho thanh tra viên, kiểm toán viên thẩm quyền áp dụng các biện pháp ngăn chặn việc tẩu tán tài sản khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm tham nhũng, kinh tế. Khẩn trương hoàn thiện cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai; quy định của pháp luật về thanh toán không dùng tiền mặt; nghiên cứu, xây dựng cơ sở dữ liệu trong các lĩnh vực bất động sản, ngân hàng, chuyển nhượng vốn góp, cổ phần để kiểm soát tài sản chặt chẽ, hạn chế việc tẩu tán, che giấu, hợp thức hoá tài sản do phạm tội mà có, tạo thuận lợi cho công tác thu hồi tài sản tham nhũng trong các vụ án hình sự tham nhũng, kinh tế.
- Về thiết chế: Để việc thu hồi tài sản tham nhũng trong các vụ án tham nhũng, kinh tế đạt hiệu quả cao nhất, cần tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan, tổ chức có chức năng thu hồi tài sản bị chiếm đoạt, thất thoát trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế.
Hoàn thiện bộ máy nhà nước từ Trung ương đến địa phương, theo hướng: tinh, gọn, hiệu lực, hiệu quả, khắc phục sự chồng chéo trong phạm vi công việc, rõ ràng về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn. Theo đó, cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành, nhanh chóng phát hiện tham nhũng, kiên quyết đấu tranh phòng - chống hành vi này.
Tăng cường trách nhiệm, quyền hạn của cơ quan giám sát, thanh tra, kiểm toán trong việc áp dụng các biện pháp thu giữ, tạm giữ, kê biên, phong tỏa tài sản của các cá nhân liên quan đến sai phạm về kinh tế, có dấu hiệu tham nhũng, tiêu cực; quy định linh hoạt thời điểm áp dụng các biện pháp phong tỏa tài khoản, kê biên tài sản, số lượng, giá trị các loại tài sản bị kê biên; quy định nội dung chứng minh “đường đi” của tài sản bị chiếm đoạt là quy định bắt buộc phải chứng minh trong vụ án hình sự; cấm các giao dịch chuyển nhượng, tặng cho tài sản kể từ khi có quyết định bị thanh tra, kiểm tra, khởi tố; xây dựng thủ tục đặc biệt để thu hồi tài sản trong các vụ án tham nhũng, kinh tế; quy định rõ trách nhiệm của cơ quan, người tiến hành tố tụng, chấp hành viên trong việc áp dụng các biện pháp điều tra để truy nguyên tài sản phạm tội, phong tỏa, kê biên và bán đấu giá tài sản là tang vật của vụ án. Sửa đổi Điều 128 và Điều 129 Bộ luật Tố tụng hình sự theo hướng quy định khi cơ quan tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án thụ lý) kê biên tài sản để bảo đảm thi hành án thì cần có sự tham gia của đại diện cơ quan thi hành án dân sự nơi có tài sản kê biên phối hợp, xử lý.
Yếu tố thứ bảy: Một số yếu tố khác ảnh hưởng đến việc thu hồi tài sản tham nhũng trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế.
- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng: Ngoài việc cần phải tiếp tục tạo sự chuyển biến mạnh mẽ hơn nữa về nhận thức và trách nhiệm, quyết tâm chính trị của Đảng về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng. Theo đó, nâng cao nhận thức, trách nhiệm, quyết tâm hành động của các cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ đảng viên nhất là ở cấp cơ sở, người đứng đầu cấp ủy phải xác định trách nhiệm của mình, trực tiếp và thường xuyên lãnh đạo và thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát.
- Yếu tố về hợp tác quốc tế: Để việc thu hồi tài sản tham nhũng trong các vụ án tham nhũng, kinh tế đạt hiệu quả cao, cần tích cực triển khai, thực hiện các hiệp định, thỏa thuận quốc tế mà Việt Nam đã ký kết, tham gia có nội dung về thu hồi tài sản tham nhũng. Đẩy mạnh tham gia, ký kết các hiệp định tương trợ tư pháp hình sự giữa Việt Nam với các nước, tạo cơ sở pháp lý, cơ chế phối hợp trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng và tích cực thu hồi tài sản tham nhũng có yếu tố nước ngoài. Chủ động phối hợp với các tổ chức quốc tế và các cơ quan có thẩm quyền ở nước ngoài để xác minh, truy tìm và xử lý tài sản do phạm tội mà có đang ở nước ngoài...
- Công tác tuyên truyền phòng chống tham nhũng: lấy sức mạnh từ nhân dân, tai mắt của quần chúng nhân dân để phát hiện và trình báo cho các cơ quan có thẩm quyền đang giải quyết các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế biết được những tài sản tham nhũng mà các đối tượng phạm tội tham nhũng, kinh tế hiện đã tẩu tán ở đâu hoặc đang sở hữu nhưng che giấu dưới nhiều hình thức khác nhau như thế nào… Qua đó giúp các cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ quan hữu quan liên quan kê biên, phong tỏa, thu giữ hết tài sản tham nhũng.
- Cần có cơ chế bảo vệ người phát hiện, người tố giác, người tố cáo, người đấu tranh chống tham nhũng: Có thể thấy rằng chỉ có thể phát huy hết sức mạnh cũng như vai trò của Nhân dân trong công tác đấu tranh chống tham nhũng, đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta dù đã ban hành nhưng vẫn cần có những cơ chế sát sườn, cũng như có những quy định chặt chẽ, nghiêm ngặt liên quan đến bảo vệ thông tin của người tố cáo.
Trong phạm bài viết này, chúng tôi đề cập đến các yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến việc thu hồi tài sản tham nhũng trong các vụ án tham nhũng, kinh tế. Việc làm rõ những yếu tố này là cơ sở để xây dựng và phát huy những yếu tố có ảnh hưởng tích cực đến việc thu hồi tài sản tham nhũng, đồng thời cũng có phương hướng đẩy lùi các yếu tố có ảnh hưởng tiêu cực đến việc thu hồi tài sản tham nhũng trong các vụ án tham nhũng, kinh tế, làm sao để công tác này đạt hiệu quả cao nhất đáp ứng các yêu cầu mà Đảng ta đã đặt ra trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo cáo chính trị Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI.
2. Báo cáo tổng kết hàng năm về công tác Thi hành án của Tổng cục thi hành án, Bộ Tư pháp.
3. Báo cáo tổng kết hàng năm về công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát thi hành án, Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
4. Thống kê của Cục thống kê Viện kiểm sát nhân dân tối cao